Tại trụ sở Phòng Cảnh sát điều tra (Công an Hà Nội), đại diện Công ty Châu Á đã cam kết bán tài sản thế chấp để trả nợ cho Ngân hàng Đông Á. Việc vay - trả đang đang là quan hệ dân sự không hiểu vì động cơ nào bỗng dưng bị hình sự hoá? Và kết quả là ông Nguyễn Mạnh Hợp vẫn phải thi hành án bằng 2382 ngày đêm trong tù...
Kỳ 1: Bí ẩn nào sau "nhã ý" bồi thường 3 tỷ đồng
Những động thái khó hiểu của Cơ quan điều tra
Hồ sơ do ông Nguyễn Mạnh Hợp cung cấp cho phóng viên Phapluatplus.vn thể hiện: Tại hợp đồng vay tiền số H003/1 được ký kết giữa Ngân hàng Đông Á (NHĐA) và Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Châu Á (Công ty Châu Á) có ghi rõ các điều khoản mà hai bên cùng có nghĩa vụ thực hiện.
Cụ thể, Điều 7 của Hợp đồng nêu: "Nếu có tranh chấp mà hai bên không giải quyết được thì đưa ra Tòa kinh tế để giải quyết. Phán xét của Tòa là pháp lệnh để 2 bên phải thi hành". Thế nhưng điều trớ trêu là vụ việc sau đó lại được giải quyết bởi Tòa án hình sự?
|
Ông Nguyễn Mạnh Hợp tiếp tục hành trình đi tìm công lý sau 2382 ngày đêm trong tù. |
Ông Hợp bức xúc cho biết: “Đây là tranh chấp dân sự giữa hai pháp nhân là Công ty Châu Á do tôi đại diện và NHĐA nhưng đã bị các cơ quan tố tụng hình sự hóa, đẩy tôi vào tù 2382 ngày đêm, khiến tôi bị khủng hoảng tinh thần. Nay được trả tự do, tôi đã gửi đơn đi các nơi để kêu cứu. Trong tôi luôn thường trực câu hỏi, cơ quan tố tụng căn cứ vào đâu để quy kết cho tôi tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản?".
Trở lại vụ án, tại công văn số 22/TD, Ngân hàng Đông Á khẳng định Công ty Châu Á vay tiền có thế chấp tài sản là 11 trạm biến áp, trị giá 128.500USD và có kèm theo các chứng từ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp tài sản thế chấp này của Công ty Châu Á.
Ngày 10/6/1996, Phòng Cảnh sát điều tra (Công an Hà Nội) mời đại diện NHĐA và đại diện Công ty Châu Á đến trụ sở tại số 55 Lý Thường Kiệt để làm việc trước sự chứng kiến ghi biên bản của bà Phùng Vân - cán bộ Phòng Cảnh sát điều tra với nội dung "Bàn phương án giải toả lô hàng thế chấp để trả nợ ngân hàng".
Tại buổi họp có ông Bùi Hoan - Kế toán trưởng Công ty Châu Á (được Giám đốc Công ty Châu Á ủy quyền); bà Lã Tú Hoa đại diện cho NHĐA. Sau khi bàn bạc, hai bên đã đi đến thống nhất cùng xuống Hải Phòng lấy hàng về Hà Nội bán, cùng với lô hàng gửi ở kho của Công ty TNHH Ngọc Linh (địa chỉ 123, đường Giải Phóng Hà Nội) để thu hồi vốn và thanh toán nợ cho NHĐA.
Ông Hợp nhấn mạnh: "Những động thái kể trên thể hiện rõ ràng việc tôi có ý thức, trách nhiệm trả nợ đối tác".
Tuy nhiên, khi đại diện hai bên xuống Hải Phòng thì lô hàng đã biến mất khỏi kho. Căn cứ vào 2 bản cam kết đã ký giữa 3 bên thì NHĐA có trách nhiệm quản lý lô hàng mà thế chấp gồm 11 chiếc máy biến áp. Thế nhưng không thể hiểu tại sao thay vì với tư cách là chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm về lô hàng thì NHĐA quay sang "nhờ" Công an Hà Nội giải quyết?
"Đã có buổi làm việc giữa các bên tại Phòng Cảnh sát điều tra (Công an Hà Nội) mà kết quả tốt đẹp là Công ty Châu Á cam kết đồng ý bán tài sản thế chấp để trả nợ vậy tại sao Cơ quan điều tra lại có những khuất tất khó hiểu khi khởi tố vụ án, quy kết tôi lừa đảo? Vì động cơ, mục đích gì mà các cơ quan chức năng đã lờ đi chi tiết này, cố tình đẩy tôi vào vào lao lý" , ông Hợp bức xúc đặt câu hỏi.
Ủy ban Tư pháp Quốc hội vào cuộc
Trở lại sự việc cách đây hơn 10 năm, tháng 8 năm 2005, TAND TP Hà Nội xử phạt ông Nguyễn Mạnh Hợp 10 năm tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Ông Nguyễn Mạnh Hợp kháng án.
Tháng 1/2006, Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) y án sơ thẩm… Ông Hợp tiếp tục gửi đơn kêu oan, kèm theo những chứng cứ chứng minh ông không phải là kẻ lừa đảo. Sau khi xem xét, ngày 20/1/2007, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) đã ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm để Hội đồng thẩm phán TANDTC xét xử hủy bản án phúc thẩm nêu trên và bản án hình sự sơ thẩm số 304/2005/HSST ngày 18/8/2005 của TAND TP Hà Nội để điều tra lại.
Ngày 09/7/2007, Hội đồng thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm đã không chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC và giữ nguyên bản án hình sự phúc thẩm số 09 ngày 11/1/2006 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội. Ông Hợp tiếp tục kêu oan.
|
Văn bản của Ủy ban Tư pháp Quốc hội gửi Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC đề nghị báo cáo về vụ án. |
Trước những lời kêu oan của ông Hợp, ngày 05/2/2009, Ủy ban Tư pháp Quốc hội khóa XII ban hành văn bản số 2332/UBTP12 gửi Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC về việc đề nghị báo cáo vụ án. Nội dung văn bản như sau:
"Ủy ban Tư pháp Quốc hội nhận được đơn của ông Nguyễn Mạnh Hợp, trú tại xã Đồng Nguyên, Từ Sơn, Bắc Ninh khiếu nại bản án Hình sự phúc thẩm số 09/2006/HSPT ngày 11/1/2006, của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội và Quyết định số 18/2007/ HS-GĐT ngày 09/7/2007, của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Căn cứ vào quy định khoản 3 Điều 27 Luật Hoạt động giám sát của Quốc Hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội trân trọng đề nghị đồng chí báo cáo bằng văn bản về việc giải quyết vụ án nêu trên. Báo cáo xin được gửi đến Ủy ban Tư pháp trước ngày 15/3/2009".
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 275 Bộ luật tố tụng Hình sự thì VKSND tối cao không có quyền xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao.
Luật sư Hoàng Minh Hiển (Đoàn luật sư TP Hà Nội cho biết: Theo quy định trong các điều luật mới bổ sung, “thủ tục đặc biệt xem xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” chỉ được thực hiện khi có 1 trong 4 trường hợp sau: 1. Ủy ban Thường vụ Quốc hội có văn bản “yêu cầu”, hoặc 2. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội có văn bản “kiến nghị”, hoặc 3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có văn bản “kiến nghị” 4. Hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có văn bản “đề nghị” Theo đó, khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đương sự không biết được khi ra quyết định đó, nếu có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định đó. - Trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. - Trường hợp có kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phát hiện vi phạm, tình tiết mới thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị đó. |
Pháp luật Plus sẽ tiếp tục đăng tải "kỳ án" này.