Ngày 05/02/2009, Ủy ban Tư pháp của Quốc Hội đã có công văn số 2332/UBTP12, do ông Phạm Quý Tỵ ký (khi đó, ông Tỵ là Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội) về việc yêu cầu báo cáo vụ án.
Khi quyết định cao nhất phải xem xét lại
|
Công văn của Ủy ban Tư pháp Quốc hội |
Sau khi có Quyết định của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao, ông Nguyễn Mạnh Hợp đã có đơn kháng án gửi cơ quan chức năng trong đó có Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng VKSND tối cao.
Ngày 05/02/2009, Ủy ban Tư pháp của Quốc Hội đã có công văn số 2332/UBTP12, do ông Phạm Quý Tỵ ký (khi đó, ông Tỵ là Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội) về việc yêu cầu báo cáo vụ án.
Sau khi có công văn của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, đại diện VKSND Tối cao là ông Nguyễn Thanh Hạo, khi đó là Phó Vụ trưởng Vụ 3 VKSND Tối cao, đã có công văn báo cáo kết quả giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, TAND Tối cáo chưa có công văn báo cáo về vụ án của ông Hợp.
Sau đó, ông Phạm Quý Tỵ chuyển công tác mới với chức danh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Lúc này ông Nguyễn Mạnh Hợp “bất ngờ”phải đi thi hành án.
Ngày 18/3/2016, Pháp luật plus đã có cuộc phỏng vấn ông Lê Văn Minh, Thẩm phán TAND Tối cao về việc cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết, xem xét lại Quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.
PV: Trên thực tế, nhiều vụ án đã có Quyết định của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, nhưng vẫn có đơn kêu cứu có oan sai. Thưa ông, vậy cơ quan nào có thẩm quyền xem xét lại Quyết định của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao?
Thẩm phán Lê Văn Minh: Nếu xét thấy có chứng cứ thể hiện có dấu hiệu oan sai, về mặt nguyên tắc phải xử lý. Kinh nghiệm ở một số nước có những hình thức xử lý khác nhau. Một khi đã có quyết định cao nhất của Hội đồng Thẩm phán (HĐTP), TAND tối cao thì người ta xử lý về mặt trách nhiệm, bồi thường của Nhà nước.
Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta có cơ chế xem xét theo thủ tục đặc biệt, đối với các quyết định của HĐTP, TAND tối cao, thì đây là quy định bổ sung mới của Bộ luật tố tụng Hình sự vừa được Quốc hội ban hành.
Năm 2011, khi sửa đổi Bộ luật tố tụng Dân sự cũng có đưa ra cơ chế đặc biệt. Theo đó, khi có ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, qua giám sát về tình trạng oan sai, có yêu cầu, thì HĐTP, TAND tối cao phải xem xét lại quyết định của chính mình.
PV: Thưa ông, ngày 1/7/2016, Luật mới có hiệu lực xem xét lại Quyết định của HĐTP TAND tối cao. Đối với những vụ án đã xét xử trước đó, có được xem xét lại theo thủ tục đặc biệt. Thưa ông?
Ông Lê Văn Minh: Nếu có ý kiến của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, ý kiến của Viện trưởng VKSND tối cao, Chánh án TAND tối cao thì HĐTP phải họp lại và xem xét lại quyết định của mình.
PV: Trình tự thủ tục để được xem xét lại Quyết định của HĐTP TAND tối cao như thế nào, thưa ông?
Ông Lê Văn Minh: Về mặt nguyên tắc, họ phải gửi đơn tới TAND tối cao, VKSND tối cao, các cơ quan giám sát. Cụ thể là Quốc Hội
Khi luật có hiệu lực, với những vụ án xét xử trước đây, vẫn có thể xem xét, nhưng theo hướng có lợi cho bị cáo.
Ngay từ bây giờ có những hồ sơ cho rằng Quyết định của HĐTP TAND tối cao là chưa đúng thì họ có thể gửi hồ sơ đó cho TAND tối cao, khi Luật có hiệu lực sẽ được xem xét, theo theo thủ tục đặc biệt.
Như vậy đến 1/7/2016, sắp tới chúng ta chờ xem tiếng kêu oan của ông Nguyễn Mạnh Hợp có “thấu trời xanh”?!
|
Ông Lê Văn Minh, Thẩm phán TAND tối cao |
Thủ tục đặc biệt thực hiện như thế nào?
Luật sư Hoàng Minh Hiển, đoàn luật sư TP Hà Nội cho biết: Theo qui định trong các điều luật mới bổ sung, “thủ tục đặc biệt xem xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” chỉ được thực hiện khi có 1 trong 4 trường hợp sau:
1. Ủy ban thường vụ Quốc hội có văn bản “yêu cầu”
2. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội có văn bản “kiến nghị”
3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có văn bản “kiến nghị”
4. hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có văn bản “đề nghị”
Theo đó, khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đương sự không biết được khi ra quyết định đó, nếu có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định đó.
- Trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Trường hợp có kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phát hiện vi phạm, tình tiết mới thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị đó.