Ai cũng đều hiểu rằng, trong bà vẫn luôn giấu kín một giấc mơ, "giấc mơ xuân nồng" bên một mái ấm gia đình có đầy đủ vợ chồng, con cái.
Kể cả những người đã sinh sống ở xóm Chiềng cách đây vài chục năm cũng không ai biết chính xác vì sao ở góc nhỏ của làng, bên cạnh trạm y tế xã lại có một người đàn bà ăn mặc rách rưới, khi nào cũng chống gậy đứng xem người ta qua lại rồi tuôn những tràng cười thật dài.
Cũng bởi vì bà Chung sống chỉ có một mình, không họ hàng thân thích, thường ngồi lê la kể cho người trong làng những câu chuyện vui hài dài dằng dặc nhưng lại chưa một lần nói về cuộc đời nhiều nước mắt của mình.
|
Bà Chung sống một mình trong căn nhà tranh bên cạnh trạm y tế xã, người trong làng thường đến động viên bà mỗi độ Tết đến xuân về. |
Chuyện tình trái ngang
Chỉ biết, vào những năm 70, người dân ở làng Quản Xá, xã Thiệu Hợp, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa theo chủ trương mới của Nhà nước nên đã di cư lên thôn Chiềng, xã xuân Lộc, huyện Thường Xuân để sinh sống và xây dựng vùng kinh tế mới.
Thời điểm đó, nơi đây là địa bàn sinh sống của người dân tộc thiểu số, còn sơ khai và khó khăn vô cùng.
Khi Nhà nước cấp đất, cấp ruộng, cấp rừng cho người dân, bà Chung tự xưng là người đến trước, dù không thuộc diện di cư, xây dựng vùng kinh tế mới nhưng cũng cùng quê cũ và giúp mọi người dựng nhà, cày ruộng, đào ao.
Lâu rồi bà có cái nghề với tên gọi là "đào ao" nên thường được người dân trong làng gọi là "Chung đào ao". Hễ nhà ai cần san lấp, đào đất để làm ao nuôi cá thì lại gọi bà.
Và rồi cũng chính cái nghề lạ lẫm đó đã đưa bà đến với mối tình ngắn ngủi nhưng đầy nước mắt khiến bà chẳng bao giờ có nổi mái ấm gia đình như bà hằng ước mơ.
Hồi đó trong làng có một gia đình mới di cư đến nhưng thuộc hàng có của ăn của để nên tính xây nhà, đào ao và dựng trang trại để sinh sống. Bà Chung được thuê đến đào ao và rồi quen một người đàn ông cũng được thuê đến để làm chung công việc đó.
Bà lúc này mới chỉ là một cô gái ngoài 20, dáng vóc cao ráo lại hoạt bát, khỏe mạnh nên được nhiều chàng trai để ý, ngỏ lời.
Thế nhưng bà lại chót phải lòng, yêu mến chất giọng dịu dàng và vẻ ngoài lịch lãm của chàng trai miền xuôi này.
Và rồi mối tình như mơ ấy cứ thế sinh sôi nảy nở khiến người phụ nữ côi cút ấy nguyện một đời "kết tóc se duyên".
Sẽ có một chuyện tình tuyệt đẹp "đơm hoa kết trái" giữa vùng quê nghèo xa xôi ấy, thiếu nữ xinh đẹp thuở đó cũng sẽ có một mái ấm gia đình với người trong mộng nếu như một buổi chiều nọ, không có một người phụ nữ lạ xuất hiện.
Bà Chung bất ngờ và tuyệt vọng bởi đó lại chính là người vợ danh chính ngôn thuận của người đàn ông mà bà vẫn thường "yêu thương".
Bà đau đớn, tuyệt vọng như vừa rơi xuống vực thẳm. Phần vì hận thù, phần lại tủi hổ với dân làng, bà Chung thu mình, chạy trốn.
Bà không còn làm nghề đào ao, cũng không còn muốn giao tiếp với nhiều người mà dựng cho mình một túp lều tranh trong ngõ hẻm phía sau trạm y tế xã rồi lủi thủi sống ở đó.
Thanh Xuân cũng nhanh chóng trôi qua, bà cứ lẳng lặng sống một mình như vậy, không cha mẹ, không bạn bè, cũng chẳng họ hàng thân thích.
Nhớ đến cô gái xinh đẹp lại tốt bụng khi xưa, người trong làng cũng nhiều lần giới thiệu cho bà vài người để tìm hiểu nhưng bà không có ý định đi đến hôn nhân với bất kỳ một ai...
Ước mơ xuân nồng
Thiếu nữ trẻ trung hồi đó giờ đây đã trở thành bà cụ ngoài 80, khuôn mặt già nua, người nhỏ thó.
Người trong làng, trong xã thường thấy bà đứng tựa cây cột của căn nhà tranh cũ kỹ bên cạnh trạm y tế xã, gặp ai cũng chào hỏi, thấy người ốm thì hỏi thăm liên hồi.
Dù tuổi đã cao nhưng bà vẫn tỉnh táo và nghe rõ, nhất là khi có cụ già nào trong làng bị ốm phải nằm điều trị, bà đều chạy vào hỏi thăm, trò chuyện. Túp lều tranh mà bà ở đã nhiều lần bị cháy bởi bà thường có thói quen hay sưởi ấm bằng củi lửa vào mùa đông.
Có lần bà đi vắng, khóa cửa ngoài, than nóng và củi phát lửa đã thiêu rụi toàn bộ căn nhà và đồ đạc. Có lần thì do mắt kém nên ngồi sưởi ấm mà bà không biết ngọn lửa đã cháy lan khắp căn nhà từ khi nào...
Người trong xóm sau đó lại dựng tạm cho bà căn nhà khác để bà sinh sống. Mặc dù cảnh già neo đơn khổ cực là vậy nhưng bà vẫn xin được sống ở đó chứ không đi viện dưỡng lão hay ở nơi nào khác.
Ông Nguyễn Văn Luân, là cán bộ thôn Chiềng chia sẻ, "biết bà là người già neo đơn, tuổi cao sức yếu nên chính quyền muốn bà ở gần trạm y tế để tiện chăm sóc. Hơn nữa, cụ cũng ở quen rồi nên không thích di chuyển nhiều".
Vài năm trở lại đây, bà Chung nhận được nhiều hơn sự quan tâm từ Nhà nước cũng như người dân địa phương.
Vậy nhưng thường ngày, dù không ai nhờ vả hay thuê mướn, bà vẫn cầm chổi đi quyét rác khắp các ngõ ngách trong làng rồi thi thoảng lại được người ta trả công cho vài đồng bạc.
Bà cũng thường chống gậy đi xin ăn khắp xã, nhà thì cho bà vài bát gạo, nhà thì cho ít khoai, nhà lại ít vừng ít lạc... Hôm nào đi xin ăn, bà cũng mang về một gánh nặng rồi sử dụng cho cả tuần. Nhất là mỗi khi trong làng có đám xá, bà đều đợi vãn khách rồi ghé qua.
Những lúc thấy bà ghé, người làng không ai bảo ai nhưng đều tự lấy cho bà nào xôi, nào thịt, những lúc đó bà lại tặng lại một tràng cười dài dằng dặc rồi đem thức ăn về.
Những lúc đau ốm, bà chống gậy qua sân, sang trạm y tế xã để xin thuốc, hoặc nếu mệt quá bà lại nằm đó, thấy bước chân người đi qua thì gọi lại nhờ giúp đỡ.
Bà kể, "người ở cái xóm Chiềng này ai cũng thương cũng quý tôi, nhất là chị Quy, hễ tôi ốm là lại nấu cháo và bê sang cho tôi ăn. Tôi khỏe rồi tôi lại mang bát với thìa sang chả...".
Mỗi dịp tết đến xuân về, bà cũng gấp gáp "chuẩn bị" cho cái tết no ấm của mình bằng cách đi xin quần áo, thực phẩm.
Những lần ngồi nói chuyện, hễ có cụ già nào trong làng còn nhớ chuyện tình yêu đau buồn thời thanh xuân của bà mà kể lại thì bà đều cười khanh khách mà nói rằng "nếu mà có một đứa con thì cũng vui vầy nhỉ".
Câu nói của bà tưởng như là một lời nói đùa nhưng người trong làng ai cũng đều hiểu rằng, trong bà vẫn luôn có một giấc mơ, "giấc mơ xuân nồng" bên một mái ấm gia đình có đầy đủ vợ chồng, con cái.