Với họ, ký ức khó phai từ những cơn thịnh nộ của đại dương vẫn còn đó. Từng chuyến giong tàu ra biển khơi thực hiện sứ mệnh thiêng liêng mà Tổ quốc đã đặt niềm tin là mỗi lần “vào sinh ra tử”. Dẫu là vậy nhưng trong họ vẫn không hề sờn lòng, nao núng.
Đó là những hình ảnh đầy xúc động trong từng chuyến hành trình gian nan, nguy hiểm của những người lính cứu hộ, cứu nạn thuộc Trung tâm Phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải khu vực 3 Việt Nam (Vietnam MRCC 3).
|
Đóng chốt tại vùng biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Vietnam MRCC 3 quản lý vùng biển lớn từ cực Nam Trung Bộ (Bình Thuận) đến cực Tây Nam Tổ quốc (Kiên Giang). Mối chuyến ra khơi, những người lính biển luôn tự trang bị cho mình những phục trang bảo hộ vững chắc. Đó được xem là quân lệnh khi tham gia tác chiến. |
|
Mỗi chuyến giong thuyền ra khơi, trong tim những người lính biển luôn tràn đầy lòng quyết tâm. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng mà Tổ quốc đã đặt niềm tin cứu nhanh, cứu nhiều những tàu bị nạn ngoài biển khơi. Vì thế, mỗi khi lên đường thực hiện nhiệm vụ, những người lính luôn họp bàn để lên phương án cứu nạn, cứu hộ hiệu quả nhất. |
|
Trong số những người lính biển, có người nay cả đời bám duyên lành với nghề, nhưng chẳng ai muốn xướng tên, vinh danh khi nói về mình. Trước khi rời đất liền, họ mỉm cười vẫy tay chào những người thân yêu của mình. Tim họ luôn tràn đầy nhiệt huyết và lòng quyết tâm cao độ. |
|
Họ rất kiệm lời khi nói về bản thân, về nhiệm vụ mà họ đang làm. Họ xem đó là trách nhiệm, sứ mệnh hơn là nhiệm vụ dẫu đó là công việc thấm đẫm mồ hôi và nước mắt lẫn trong vị mằn mặn của biển vẫn in sâu trong họ qua năm tháng. Đó là ám ảnh những khi phải trực tiếp tiếp xúc với thi thể người chết nhiều ngày thối rửa trôi lênh đênh trên biển. |
|
Anh Võ Quyết Thắng (trái) bảo với chúng tôi rằng, nghề nào cũng cần niềm đam mê và tình yêu đặc biệt mới có thể trụ vững, còn công việc cứu hộ, cứu nạn thì như là “tôn chỉ” sống của nghề. Đó là những ám ảnh cứu đeo đẳng suốt cuộc đời họ trong những lần “tận mục” với thi thể người chết bị phân hủy, không còn nguyên vẹn. |
|
Những có lẽ nguy hiểm nhất là những lần mặt giáp mặt với những “tàu lạ”, những cơn bão bất chợt trên biển khiến công việc tìm kiếm khó khăn bội phận. Có những lúc sống và chết chỉ trong gang tấc, rất mong manh. |
|
Họ cũng chia sẻ, chẳng người lính nào muốn phải thêm một lần nhận lệnh đi tìm kiếm tàu bị nạn ngoài biển. Mỗi lần giong tàu ra khơi là một niềm đau, niềm hy vọng của người ở lại và chỉ những ai từng trải mới thấu hiểu. |
|
Mang theo niềm tin “chiến thắng” của biết người đất liền ký thác trước biển cả vô tình. Bao chuyến tàu trở về đất liền luôn mang theo niềm vui mừng không gì có thể kể xiết của anh em thủy thủ và thân nhân người bị nạn khi hoàn thành suất xắc nhiệm vụ. |
|
Thuyền trưởng tàu SAR 413 Đinh Xuân Trường luôn trầm ngâm khi khơi lại những chuyện đã qua. Anh không nói nhiều về mình, chỉ muốn nhủ chút tâm nguyện của mình đến với anh em thủ thủ. Anh nói bằng cái giọng nhỏ nhẹ: Nghề nào cũng thế nếu không có lòng quyết tâm, đoàn ký và sự xả thân thì không thể hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng mà Tổ quốc giao phó, khó mà trụ vững với nghề. |
|
Chuyến đi thành công khi và chỉ khi có thể cứu được một ai còn sống đưa về đất liền. Và nếu như không may mắn không cứu được ai là niềm day dứt, niềm đau, chỉ biết nuốt nước mắt vào trong nhìn thân nhân người bị nạn quằn quại trong nỗi đau tuyệt vọng. |
|
Những người lính biển xem biển là quê hương, tàu là nhà. Bởi nơi đó có mùi mặn của biển, vị “chát” của mồ hôi và nước mắt của tình người. Những cái bắt tay thắm tình cùng những lời động viên luôn là động lực lớn để những người lính biển ngày ngày lại giong thuyền ra biển. |